Đổi mới văn hóa - giáo dục Đổi Mới

Đổi mới trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam được biết dưới tên Cởi Mở, tương tự như chính sách Glastnost của Liên Xô. Quá trình này bắt đầu cùng với Đổi mới kinh tế nhưng sau đó bị kiềm chế lại trong thập niên 1991.

Năm 2014, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước được ban hành. Tuy nhiên nhà nước vẫn kiểm soát báo chí và chưa cho phép xuất bản báo tư nhân. Nhà nước thường xuyên dùng các biện pháp hành chính can thiệp vào hoạt động xuất bản và biểu diễn nghệ thuật như thu hồi sách, cấm triển lãm tranh, kiểm duyệt nội dung phim... Tuy nhiên người Việt đã có thể tiếp cận với nền văn học nước ngoài, các hệ tư tưởng lớn trên thế giới thông qua các sách nước ngoài được xuất bản ngày càng nhiều tại Việt Nam. Sự xuất hiện của internet đã phá vỡ tình trạng độc quyền thông tin của nhà nước, cung cấp cho người đọc những thông tin không xuất hiện trên truyền thông của nhà nước (tất nhiên độ chính xác những thông tin không chính thức này là khó kiểm chứng, nó có thể là sự thật nhưng cũng có thể là bịa đặt). Những yếu tố này làm biến đổi dần tâm lý và tư duy của đại chúng cũng như của giới cầm quyền tại Việt Nam, có thể dẫn đến những biến đổi chính trị trong tương lai.

Bên cạnh đó, các vấn nạn về văn hóa vẫn nghiêm trọng, lối sống thực dụng, văn hóa lai căng dần phổ biến ở thành thị, nhất là tác động xấu tới lớp trẻ, trong khi ở nông thôn văn hóa nhiều nơi lạc hậu, tệ mê tín dị đoan phát triển. Ít các tác phẩm văn học nghệ thuật có chất lượng, có chiều sâu. Báo chí và các xuất bản phẩm có xu hướng trở nên "lá cải hóa", thương mại hóa[131].

Trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam đang thực hiện Đổi mới giáo dục: chuyển từ lối giáo dục từ chương (vốn là truyền thống trong cách giáo dục Á Đông) sang phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, tăng tính chủ động cho học sinh và tấn công vào căn bệnh thành tích; tăng tính tự chủ và tự do của nền giáo dục. Giới lãnh đạo Việt Nam đã ý thức được sự cần thiết của tự do tư tưởng trong học thuật[132] và tự trị đại học[133] cũng như việc nền đại học Việt Nam cần phải chuẩn hóa và hội nhập quốc tế[134]. Tuy nhiên Việt Nam vẫn chưa xác định được hệ thống triết lý giáo dục làm nền tảng cho quá trình Đổi mới giáo dục nên mọi đổi mới đều mang tính manh mún, chắp vá và thiếu định hướng nhất quán bắt nguồn từ việc bắt chước nền giáo dục của các nước phát triển mà không hiểu rõ vì sao người ta làm như vậy. Hệ thống giáo dục Việt Nam vẫn bị xem là chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhân lực cho nền kinh tế[135]. Vì vậy chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới ở mức thấp (3,39 trên 10 điểm), phân bố không hợp lý, chưa được đào tạo tốt, không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng và có khoảng cách lớn so với các quốc gia trong khu vực[136]. Nguồn nhân lực đang bị xem là điểm nghẽn của nền kinh tế Việt Nam trong dài hạn[124]. Nguồn tài nguyên chính của Việt Nam là con người. Vì vậy, điều kiện tiên quyết để phát triển trong dài hạn là đầu tư phát triển nguồn vốn con người.[137] Trong tương lai máy móc sẽ dần thay thế con người trong nhiều hoạt động đơn giản, nhu cầu lao động phổ thông, lao động giản đơn sẽ dần bị thay thế bởi lao động chuyên sâu, có hàm lượng tri thức cao nhưng chất lượng lao động của Việt Nam chưa đáp ứng được. Chính vì vậy Việt Nam cần tăng tốc hơn nữa trong việc đào tạo lao động có kỹ năng phù hợp[138].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đổi Mới http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/04/1604... http://www.kas.de/wf/doc/kas_48064-1522-1-30.pdf?1... http://iussp2005.princeton.edu/papers/50294 http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/no-nu... http://www.econlib.org/library/Enc/Capitalism.html http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=764... http://blogs.worldbank.org/eastasiapacific/vi/viet... http://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.KD... http://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.PCAP.PP... http://data.worldbank.org/indicator/NY.GNS.ICTR.ZS...